Hàn Quốc: Lộ danh sách sao nữ “bán thân”


Nguồn : tintucvina.com – 30/11/2009

Trước nay chuyện sao nữ xứ sở Kim chi “bán thân” cho các vị có máu mặt vốn khiến các fan nhiều lần bán tín bán nghi nhưng mới đây một danh sách các sao “bị sở hữu” đã được công bố bởi một tờ báo Hàn Quốc thực sự đã gây chấn động giới showbiz.

Nữ diễn viên Son Yun – Ah cũng đã thừa nhận rằng cô từng bị đề nghị khiếm nhã.

Danh sách trên do một người trong ngành giải trí cung cấp, trong đó khẳng định rằng những nữ diễn viên trong danh sách đã kiếm được một khoản kếch xù từ “công ty cung cấp và các dịch vụ ngoài giờ” môi giới tới những đại gia “sở hữu” họ.

Danh sách này không chỉ đích danh tên của các sao, nhưng lại ám chỉ rất rõ về danh tính của họ. Chẳng hạn một trong số đó được miêu tả là “Cô L. trở nên nổi tiếng chỉ qua một bộ phim truyền hình”, “Cô S. là gương mặt quen thuộc của những serie phim nhỏ” hoặc “cô C. lanh lợi, gần đây tham gia vào một bộ phim gia đình rất ăn khách”.

Theo thông tin bài báo này cho biết, các đại gia có thể giao dịch với các sao nữ này qua mạng hoặc hẹn gặp ở những địa điểm bí mật, tại đó họ phải trả “phí hầu rượu” cho các người đẹp lên tới 3 đến 5 triệu won.

Một khi đã đồng ý làm “gái bao”, nữ diễn viên này sẽ phải ký một hợp đồng để đảm bảo sẽ kín miệng và không làm lộ danh tính người sở hữu mình. Nếu phá vỡ hợp đồng họ sẽ phải bồi thường 3 tỉ won. 

Ngôi sao nổi tiếng Song Yun-Ah 36 tuổi đã thừa nhận trong một cuộc phỏng vấn rằng cô cũng từng “bị tiếp cận và bị đề nghị ký hợp đồng như thế”. Cô cho biết: “Lời đề nghị còn bao gồm việc cùng tham gia các buổi tiệc rượu với “người sở hữu” cũng như đáp ứng nhu cầu tình dục. Việc này xảy đến khi tôi mới bước chân vào nghề. Rất may là tôi đã từ chối. Tôi hy vọng rằng những nghệ sĩ nữ sau tôi sẽ không ấu trĩ đồng ý những lời đề nghị đó, bởi nếu làm thế thì đến khi nổi tiếng họ sẽ cực kỳ tiếc nuối.”

Theo một cuộc thăm dò các nữ nghệ sĩ xứ Hàn tháng trước đã cho một kết quả bất ngờ. Một phần tư các sao thừa nhận họ “buộc phải có cử chỉ thân mật với người khác không theo mong muốn”. Trong khi đó, 12% số nghệ sĩ thừa nhận, họ đã đổi sex lấy tiền và cơ hội nghề nghiệp trong ngành giải trí.

TheoThu Hằng – Gia đình.net/Diva

Ổ ghi Blu-ray 12X kết hợp USB 3.0


20:34 | 28 – 11 – 2009

TTO – Nối tiếp xu hướng trang bị chuẩn kết nối USB 3.0 cho các thiết bị số, hãng Buffalo tung ra dòng ổ ghi Blu-ray đạt tốc độ ghi đến 12X và trang bị kết nối USB 3.0.

Ổ ghi Blu-ray 12X BR-X1216U3 của Buffalo – Ảnh: Internet

Chuẩn kết nối USB 3.0 với giao diện 5Gbps cho phép truyền tải dữ liệu cực nhanh cho 1 đĩa Blu-ray dung lượng 25GB. Ổ Blu-ray Buffalo BR-X1216U3 có thể ghi được với tốc độ 12X cho cả loại đĩa Blu-ray 1 và 2 lớp, thời gian ghi đĩa vào tầm 11 phút cho đĩa Blu-ray 25GB .

Buffalo BR-X1216U3 sẽ được bán ra trên thị trường Nhật Bản vào tháng 12 tới đây với mức giá 8,5 triệu đồng.

PHONG VÂN (Theo MobileWorld)

“Cậu nhỏ” của nước nào ngắn nhất thế giới?



vienamnet.vn – 24/03/2011

Theo khảo sát của Targetmap về kích cỡ “cậu nhỏ” của đàn ông trên toàn thế giới, đàn ông châu Phi là những người có “của quý” lớn nhất thế giới, trong khi đó cánh mày râu châu Á lại có kích thước “cậu nhỏ” hơi hạn chế.

Điển hình tại Conggo, kích thước “cậu nhỏ” của đàn ông tại quốc gia này lên tới 17,93cm. Một số nước khác thuộc châu Phi cũng có kích thước cậu nhỏ siêu “khủng” như Cameroon là 16,67cm, Zambia 15,78 cm,  Angola 15,73 cm…

Bản đồ khảo sát về kích thước “bộ phận nhạy cảm” của đàn ông toàn thế giới
Trong khi đó tại Châu Á, khu vực đông dân nhất thế giới lại rất hiếm có quốc gia nào có kích cỡ “cậu nhỏ” vượt quá 13cm. Đàn ông Hàn Quốc có kích cỡ “bộ phận nhạy cảm” nhỏ nhất thế giới với chiều dài 9,66cm. Số đo này của người Trung Quốc là 10,89cm, của Ấn Độ là 10,24cm, Nhật Bản là 10,92cm, Thái Lan là 10,16cm và Việt Nam là 11,47cm.

Ở khu vực Mỹ La tinh, đứng đầu là đàn ông Ecudo với kích cỡ dương vật 17,59cm, tiếp đó là Colombia với chiều dài 17,03cm, Argentina là 14,59cm, còn Chile gần nhỏ nhất khu vực với độ dài 14,88cm.

Đàn ông Châu Phi có kích thước “cậu nhỏ” lớn nhất thế giới
Đàn ông Mỹ có kích cỡ “của quý” trung bình 12,9cm, Canada là 13,92cm, Mexico và Brazil lần lượt là 15,68cm và 13,78cm.

Đàn ông xứ xở bò tót – Tây Ban Nha xếp thứ 74 thế giới về độ lớn của “cậu nhỏ” với kích thước trung bình là 13,85cm. Trong khi đó đàn ông Pháp có kích thước lên tới 16,1cm và Anh là 13,97cm

Phương Anh (Theo Targetmap)

Những dấu ấn đáng nhớ trong lịch sử ĐTDĐ


(VnMedia) – Sự phát triển điện thoại di động đã trải qua hơn 20 năm với biết bao biến đổi về cả kiểu dáng và tính năng kể từ những chiếc điện thoại “cục gạch” Motorola DynaTAC (năm 1983) tới “siêu phẩm” iPhone 3GS của Apple (2009).

Dưới đây là những chiếc điện thoại đã để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử phát triển của ĐTDĐ:

1. ĐTDĐ đầu tiên: “Cục gạch” Motorola DynaTAC 8000X (1983)

 

 

Hà Bùi – (Theo PCW, C.Net)

 

Ảnh minh họa
Mãi đến năm 1983, DynaTAC 8000X của Motorola mới được thương mại hóa mặc dù nguyên mẫu của chúng đã được hãng đưa ra từ năm 1973. DynaTAC có trọng lượng gần 1 kg, thời lượng sử dụng pin chỉ được 1 giờ và lưu được 30 số điện thoại liên lạc. Motorola DynaTAC nổi tiếng được sử dung trong các bộ phim vào năm 1987.

2. Nokia Mobira Senator (1982): Điện thoại ôtô đầu tiên

Ảnh minh họa
Vào đầu những năm 1980, Nokia đã bán ra thị trường phiên bản đầu tiên của chiếc Mobira Senator dành cho xe hơi. Sản phẩm có trọng lượng tới 10kg và trông giống như một chiếc đài radio cỡ lớn hơn là một chiếc ĐTDĐ truyền thống.

3. Nokia Mobira Cityman 900 (1987)

Ảnh minh họa
Năm 1987, Nokia đã giới thiệu chiếc điện thoại Mobira Cityman 900. Đây là ĐTDĐ cầm tay đầu tiên dành cho các mạng di động Bắc Âu (NMT). Mobira Cityman 900 đã trở thành một thiết bị hình tượng khi nhà lãnh đạo Soviet Mikhail Gorbachev đã chụp bức ảnh đang cầm chiếc Cityman gọi điện từ Helsinki (thủ đô Phần Lan) tới Moscow (Nga). Mobira Cityman 900 nặng 0,8kg và có giá 6635USD (theo tỷ giá hiện nay).

4. Nokia 101 (1992): Điện thoại GSM đầu tiên

Ảnh minh họa
Nokia 101 là chiếc điện thoại sử dụng công nghệ GSM lần đầu tiên trên thế giới được thương mại hóa. Sản phẩm đặt nền tảng cho các thiết kế ĐTDĐ dạng thanh (candy-bar) sau này. Nokia 101 được trang bị màn hình đen trắng, một anten có thể kéo ra ngoài và lưu trữ được 99 số điện thoại. Tuy nhiên, sản phẩm chưa được tích hợp nhạc chuông “Nokia tune” nổi tiếng của hãng. Hai năm sau (1994), “Nokia tune” mới xuất hiện trên các mẫu điện thoại kế tiếp.

5. IBM Simon Personal Communicator (1993): Màn hình cảm ứng

Ảnh minh họa
IBM Simon Personal Communicator là một trong những chiếc smartphone có thể tồn tại đầu tiên trên thị trường. Đây là sự đầu tư chung giữa IBM và Bellsouth. Sản phẩm chỉ được bán ra ở thị trường Mỹ và không có phím bấm. Thiết bị sử dụng màn hình cảm ứng và bút tùy chọn để thực hiện các chức năng chính của điện thoại như bấm số, gửi fax và ghi nhớ. Sản phẩm có giá 899USD vào thời điểm ra mắt.

6. Motorola StarTAC (1996): Điện thoại dạng gập đầu tiên

Ảnh minh họa
Một lần nữa, Motorola lại được biết đến với các thiết kế làm thay đổi cuộc chơi trong thế giới di động và StarTAC là một trong những ví dụ đầu tiên đó. Đây là chiếc ĐTDĐ đầu tiên trên thế giới có dạng gập và được thiết kế rất thời trang kết hợp với trọng lượng nhẹ và bộ khung rắn chắc cùng với các tính năng cơ bản của điện thoại. Mặc dù ra mắt cách đây hơn một thập kỷ nhưng StarTAC lại có kích thước nhỏ và nhẹ hơn so với nhiều ĐTDĐ và smartphone hiện nay.

7. Nokia 9000 Communicator (1996): Smartphone đầu tiên

Ảnh minh họa
9000 Communicator của Nokia có trọng lượng khá nặng (397g), bộ nhớ 8MB và màn hình đen trắng nhưng đây là chiếc smartphone đầu tiên trên thế giới. Nhìn bề ngoài, 9000 Communicator trông giống như một chiếc ĐTDĐ thông thường nhưng khi mở ra chúng sẽ để lộ một màn hình thứ hai và một bàn phím QWERTY.

8. Nokia 5110 (1998): Tháo lắp được vỏ

Ảnh minh họa
Cuối những năm 90, ĐTDĐ dạng thanh của Nokia đã được tất cả người dùng ưa chuộng. Không thể phủ nhận rằng, Nokia 5110 là chiếc điện thoại  được sử dụng phổ biến nhất thời bấy giờ. Hơn nữa sản phẩm còn là một trong những điện thoại đầu tiên được giới thiệu có vỏ nhiều màu sắc và có thể tháo lắp được. Không chỉ thế, Nokia 5110 còn nổi tiếng với chất lượng tuyệt vời, thời lượng sử dụng pin lâu và là một trong những điện thoại có trò chơi Snake được phổ biến rộng rãi.

9. Sharp J-SH04 (2000)

Ảnh minh họa
J-SH04 của Sharp là chiếc điện thoại đầu tiên trên thế giới tích hợp camera và đã ra mắt ở Nhật vào năm 2000. Sản phẩm hoạt động trên mạng J-Phone của Nhật. J-SH04 tích hợp một bộ cảm biến hình ảnh CMOS 110 nghìn điểm ảnh và màn hình hiển thị 256 màu.

10. RIM BlackBerry 5810 (2002): Dành cho những người hay dùng e-mail

Ảnh minh họa
Trước đây, RIM đã tích hợp các tính năng tổ chức dữ liệu, thư điện tử cho các thiết bị nhưng lại thiếu khả năng đàm thoại và 5810 là chiếc ĐTDĐ BlackBerry đầu tiên bổ sung thêm khả năng đàm thoại đó. Tuy nhiên, sản phẩm vẫn còn thiếu loa và micro nên cần sử dụng một bộ ống nghe để thực hiện đàm thoại.

11. Palm Treo 600 (2003): Sự kết hợp PDA và điện thoại

Ảnh minh họa
Treo 600 được phát hành năm 2003 và sử dụng mạng Viễn thông Telstra (hãng  di động lớn nhất ở Úc). Sản phẩm là sự kết hợp tính năng của PDA và ĐTDĐ. Treo 600 được trang bị một bàn phím QWERTY đầy đủ, màn hình màu và hoạt động trên hệ điều hành Palm OS 5.

12. Nokia N-Gage (2003): Điện thoại chơi game

Ảnh minh họa

Sự tham gia của Nokia vào thế giới game đã gây nên một sự xáo trộn nhưng N-Gage nhanh chóng gặp phải thất bại. Mục đích ban đầu của Nokia là tạo ra một sản phẩm cạnh tranh với các thiết bị chơi game cầm tay phổ biến như Nintendo Game Boy nhưng N-Gage không được người dùng đón nhận vì các chức năng điều khiển nghèo nàn, hình dáng thiết kế lập dị giống. Có lẽ điểm lập dị nhất đối với N-Gage là việc sử dụng chúng như một ĐTDĐ. Người dùng phải cầm điện thoại nghiêng cạnh để đàm thoại vì micro và loa được đặt ở cạnh máy.

13. O2 XDA IIs (2004)

Ảnh minh họa
Cũng như Palm, O2 vốn nổi tiếng với những thiết bị PDA. Chẳng hạn như XDA IIs phát hành vào năm 2004, được trang bị một bàn phím QWERTY dạng trượt. Đây là một PDA lai với ĐTDĐ có đầy đủ chức năng. Giá khởi điểm của sản phẩm là 1390USD nhưng vào thời điểm đó, mức giá này là hoàn toàn hợp lý bởi máy có nhiều chức năng tổ chức và có cả kết nối không dây.

14. Motorola RAZR V3 (2004)
Sản phẩm đã gây một ấn tượng sâu sắc trong các mẫu thiết kế công nghiệp. RAZR V3 là một trong những chiếc ĐTDĐ ấn tượng nhất được phát hành. Sản phẩm được thiết kế với một khung nhôm, tích hợp camera VGA, có khả năng hoạt động trên 4 băng tần và hỗ trợ Bluetooth. Sự thành công tiếp theo của RAZR V3 là các phiên bản RAZR V3x, RAZR V3i và RAZR V3xx.

15. Motorola ROKR E1 (2005): Điện thoại kết nối với iTunes

Ảnh minh họa

 

Ảnh minh họa
ROKR E1 là một trong những điện thoại được đoán trước là “hot” nhất năm 2005 do tích hợp iTunes của Apple. Sản phẩm là kết quả của sự hợp tác giữa Apple và Motorola. Tuy nhiên, nhiều người dùng đã thất vọng về sản phẩm này khi họ mọng đợi một điện thoại iPod thực sự (và điều đó chỉ đến với iPhone của Apple). Sự kết hợp ĐTDĐ và máy nghe nhạc trên ROKR E1 bị hạn chế bởi kết nối USB 1.1 tốc độ chậm, lưu trữ 100 bài hát và một camera VGA.

16. Motorola MOTOFONE F3 (2007): Điện thoại rẻ nhất

Ảnh minh họa
Với giá bán 60USD, MOTOFONE F3 đã trở thành một trong những chiếc ĐTDĐ rẻ nhất được phát hành ở Úc. Sản phẩm có tính năng EPD (Hiển thị giấy điện tử), tiêu thụ điện năng thấp, kích thước mỏng và nhẹ. Màn hình hiển thị của sản phẩm không có ánh sáng chiếu nền.

17. Apple iPhone (2007):

Ảnh minh họa
iPhone được ra mắt đầu tiên ở Mỹ vào năm 2007 và là điện thoại 2G có kiểu dáng thiết kế tuyệt đẹp. Tuy nhiên, sản phẩm thiếu các tính năng cơ bản là tin nhắn đa phương tiện MMS và ghi video. Năm 2008, một năm sau khi phiên bản đầu tiên bán ra thị trường Mỹ, iPhone 3G đã được cho ra mắt ở Úc và các thị trường khác trên thế giới. Tiếp đó, trong năm nay Apple đã tung ra iPhone 3GS để khắc phục những thiếu sót của các phiên bản iPhone trước đó. iPhone được trang bị màn hình cảm ứng thân thiện với người dùng và có thể tải nhiều ứng dụng trên kho ứng dụng của hãng.

18. Samsung G800 (2008): Trang bị camera zoom quang

Ảnh minh họa
ĐTDĐ đầu tiên phát hành ở Úc được trang bị camera 5MP với zoom quang 3x, Samsung G800 là bước tiến lớn hướng vào thị trường ĐTDĐ tích hợp camera. Khả năng thực hiện zoom của G800 là tuyệt vời đối với  một chiếc điện thoại di động cùng với việc kết hợp đèn flash Xenon để chụp các bức ảnh có độ chiếu sáng thấp.

19. HTC Dream (2009): Điện thoại của Google

Ảnh minh họa
HTC Dream là chiếc điện thoại di động đầu tiên cài đặt hệ điều hành Android của Google được bán ra ở thị trường Úc vào đầu năm 2009. Phiên bản đầu tiên ra mắt ở Mỹ như T-Mobile G1. HTC Dream là thương hiệu dành cho thị trường Úc. Sản phẩm hoạt động trên mạng Optus, được trang bị bàn phím trượt QWERTY, màn hình cảm ứng, quả cầu điều khiển chuột.

20. Palm Pre (2010?): Hiệp sĩ cứu cánh cho Palm

Ảnh minh họa
Được công bố đầu tiên vào tháng 2/2009, Pre của Palm được phát hành vào tháng 6 ở Mỹ nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa được ra mắt ở Úc. Sản phẩm hoạt động trên hệ điều hành webOS của chính hãng được đánh giá khá cao và có thể sẽ giúp Palm cạnh tranh với các sản phẩm của Apple hay Blackberry của RIM,… 

Hà Bùi – (Theo PCW, C.Net)

Virus W32.SafeSys khiến các cửa hàng Internet VN khốn đốn


TTO – Loại virus có khả năng lây nhiễm xuyên qua lớp bảo vệ của phần mềm đóng băng hệ thống Deep Freeze đang làm lao đao các cửa hàng Internet tại Việt Nam. Xuất hiện từ đầu tháng 3-2009, đến nay đã có 174 dòng biến thể của virus xuất xứ từ Trung Quốc này được tung lên mạng.  

Deep Freeze là phần mềm được sử dụng phổ biến tại các cửa hàng Internet Việt Nam. Phần mềm này có khả năng giám sát việc thay đổi các sector (vùng lưu trữ dữ liệu) trong phân vùng của ổ cứng và lưu lại thay đổi vào một vùng đệm. Khi chương trình bình thường truy xuất đến các sector này, dữ liệu ở vùng đệm được đưa ra thay thế cho dữ liệu ở sector gốc.

Khi máy tính khởi động lại, dữ liệu trong vùng đệm sẽ bị xóa và máy tính trở lại trạng thái như ban đầu. Cài đặt Deep Freeze cho máy tính, các chủ tiệm Internet cho rằng có thể yên tâm vì chỉ cần khởi động lại máy tính là Deep Freeze đưa hệ thống trở về trạng thái thiết lập ban đầu, tránh nguy cơ về virus. 

Tuy nhiên, W32.SafeSys.Worm lại sử dụng kỹ thuật ghi trực tiếp dữ liệu lên sector của đĩa thông qua việc gửi yêu cầu tương tác trực tiếp với controller (trình điều khiển) của ổ đĩa máy tính. Bằng cách này, W32.SafeSys.Worm có thể ghi lên đĩa mà các chương trình đóng băng hệ thống như Deep Freeze không hề hay biết. 

Vượt qua được Deep Freeze để lây nhiễm vào máy tính, W32.SafeSys.Worm sẽ tiếp tục tiến hành các hoạt động phá hoại như: lấy cắp mật khẩu Game online, giả Gateway, chèn iframe khai thác lỗ hổng phần mềm để tiếp tục lây nhiễm trong mạng LAN, lây lan qua USB, tự cập nhật biến thể mới. Nhiều cửa hàng Internet, do quá tin tưởng vào Deep Freeze nên không dùng các biện pháp bảo vệ khác, đã trở thành nạn nhân của W32.SafeSys.Worm. Theo thống kê của Bkis, đã có ít nhất 46.000 máy bị nhiễm sâu này, tại Việt Nam.

Nếu cửa hàng Internet của bạn gặp vấn đề với virus này, bạn có thể cập nhật phiên bản Bkav mới nhất từ địa chỉ http://www.bkav.com.vn/ để xử lý virus.

Xuất hiện sâu đầu tiên lan tràn trên iPhone


TTO – Ikee là đoạn mã độc đầu tiên tấn công iPhone tại Úc. Tuy nhiên, nó chỉ thâm nhập được vào các điện thoại đã bị truất quyền điều khiển (jailbreak) để chạy phần mềm không được phép.

 

 
Virus thâm nhập iPhone đã xuất hiện nhưng không nguy hiểm

 

Thật ra Ikee không làm điều gì quá tệ, nó chỉ thay đổi hình nền của máy bị nhiễm sang ảnh của ca sĩ Rick Astley thập niên 1980 rồi tìm kiếm các máy khác để lây nhiễm. Nhưng điều đáng lo là nó có thể bị chỉnh sửa để gây nhiều mối nguy hơn như ăn cắp thông tin nhạy cảm trên loại điện thoại này.

Hiện tại chỉ có iPhone bị người dùng can thiệp hệ thống và chạy một ứng dụng Unix mang tên SSH (Secure Shell) với mật khẩu mặc định “alpine” thuộc đối tượng bị ảnh hưởng. SSH cho phép kết nối với hầu hết iPhone khác từ xa, qua Internet, để việc cài đặt phần mềm này với mật khẩu mặc định cũng giống y như việc thêm một cửa sau đã được mở khóa vào thiết bị. Nó không thâm nhập được điện thoại dùng công nghệ NAT (cho người dùng chia sẻ một địa chỉ IP).

Các chuyên gia bảo mật cho hay họ đã biết về rủi ro này được một thời gian. Sâu này được viết hôm 4-11, tác giả là Ashley Towns, một lập trình viên tự do 21 tuổi tại Úc. Anh ta cho hay muốn chỉ cho mọi người thấy là phải thay đổi mật khẩu mặc định đó.

“Mới đầu nhiều người cảm ơn tôi vì mục đích của tôi không phải phá hoại”, Towns nói. Anh ta không nghĩ rằng việc phát tán mã này là điều bất hợp pháp và gây nguy hiểm. Riêng anh này đã phát tán sâu vào hơn 100 chiếc iPhone. Tuần trước, một hacker người Hà Lan đã can thiệp vào các iPhone dễ bị dính kiểu tấn công này và đòi 7,5 USD để giao hướng dẫn vá lỗi.

Trong khi đó, hầu hết iPhone ở Việt Nam đều đã trải qua quá trình jailbreak để dùng phần mềm lậu của bên thứ 3 không phải từ Apple.

PHAN ANH (Theo PCWorld)

iPhone bẻ khóa lại bị tấn công


TTO – Các iPhone bẻ khóa (jailbreak) tiếp tục trở thành mục tiêu phá hoại của một loại mã độc mới mang tên iPhone/Privacy.A chỉ vài ngày sau sự kiện Ikee.

 

Cần cẩn trọng khi kết nối iPhone với máy tính và mạng Wi-Fi “chùa”. Ảnh minh họa: Slashgear

 iPhone/Privacy.A, theo cách gọi của Hãng bảo mật Intego, dùng phương pháp tương tự sâu Ikee để bí mật chiếm hữu quyền điều khiển điện thoại Apple. Mã tấn công ăn cắp rất nhiều thông tin cá nhân từ iPhone gặp nạn, bao gồm nội dung email, thông tin liên lạc trong sổ địa chỉ, tin nhắn SMS, các file nhạc và video, ảnh và các mục ghi chú trong lịch làm việc.

Giống Ikee, sâu đầu tiên tấn công iPhone, mã độc iPhone/Privacy.A chỉ thâm nhập các điện thoại đã bị người dùng can thiệp hệ thống để dùng phần mềm lậu và mạng của các nhà cung cấp viễn thông không do Apple chỉ định. Như vậy, toàn bộ iPhone đang hoạt động ở Việt Nam và nhiều nước khác đều thuộc nhóm đối tượng có nguy cơ bị tấn công.

“Điều này không gây sốc – Charlie Miller, chuyên gia nghiên cứu các lỗ hổng iPhone, nhận xét – Hành động jailbreak sẽ cho người dùng quyền truy cập vào lõi iPhone (quyền root) nên hacker khai thác đươc lỗ hổng này là bình thường”. Chúng còn có thể làm hóa đơn thanh toán tiền điện thoại của bạn gia tăng chóng mặt bằng cách gửi đi vô số SMS…

Theo Intego, mã độc này cài được trên máy tính dùng Windows, Mac OS hay cả Linux, làm cơ sở nhiễm vào các iPhone kết nối để đồng bộ hóa dữ liệu. Không chỉ thế, nó cũng dùng cả mạng Internet để quét các iPhone có trong mạng và lây nhiễm. Do đó, một hacker có thể ngồi trong quán cà phê để máy tính quét các iPhone đang dùng chung mạng Wi-Fi.

Mã độc này được viết bằng ngôn ngữ lập trình Python mã nguồn mở nên rất linh động. Do đó, các chuyên gia khuyến cáo người sử dụng hết sức cẩn thận, một là không dùng iPhone jailbreak, hai là phải tạm thời đặt mật khẩu “kiên cố” cho hệ thống và các kết nối mạng.

PHAN ANH (Theo Computerworld)

Nguồn: TTO

Sâu mới gán mật khẩu cho iPhone


TT- – TTO – Biến thể của loại sâu tấn công vào các dòng iPhone bẻ khóa đã thực hiện một trò đùa cợt mới bằng cách phá mật khẩu gốc và thay đổi thành “ohshit”.

iPhone bẻ khóa và cài đặt SSH: mồi ngon của tin tặc

Chỉ sau 1 tháng kể từ khi phiên bản sâu đầu tiên có phần “hiền lành” mang tên Ikee tấn công vào các máy iPhone bẻ khóa (jailbreak), thay đổi hình nền (wallpaper) thành hình ca sĩ ở thập niên 80 Rick Astley và kế đến là phiên bản thứ 2 có tên iPhone/Privacy.A tiếp tục tấn công vào iPhone bẻ khóa, phiên bản thứ 3 đã bắt đầu lộ diện. Loại sâu mới này vẫn mở kết nối SSH hoạt động thay vì tắt chúng đi như Ikee đã làm và ngoài ra, nó còn thay đổi mật khẩu hệ thống (root password) khiến nạn nhân không thể truy xuất vào máy để tiêu diệt chúng.

Mật khẩu bị thay đổi bằng cách xáo trộn giá trị trong tập tin /etc/master.password chứ không thay đổi thông qua câu lệnh password cùng mật khẩu mới. Theo cách thức này, tin tặc đã tạo tấm khiêng vững chắc cho mật khẩu nên nạn nhân không thể nào mò ra được.

“Vỏ quýt dày gặp móng tay nhọn”, mật khẩu mã hóa bởi sâu bị phá vỡ bởi Paul Ducklin từ hãng bảo mật Sophos qua công cụ John The Ripper rất phổ biến trong giới giải mã. Kết quả mật khẩu mới là “ohshit”, một trò đùa cợt từ chủ nhân của sâu nhưng cho thấy mức độ nguy hiểm mà sâu có thể gây hại cho người dùng.

Apple “ngồi mát xơi bát vàng”

Vị chủ nhân không vội vã gì trước các loại sâu đang chui rúc vào đứa con cưng của mình mà thậm chí ngồi rung đùi hưởng lợi từ sự đe dọa của các “thiên thần” sâu lên những đứa con “ngoài hôn nhân” này.

Nguyên do xuất phát từ việc Apple vẫn bán gián tiếp iPhone ra thị trường thông qua các nhà cung cấp dịch vụ mạng như ATT tại Mỹ hay Orange tại Pháp…kèm theo hợp đồng bắt buộc sử dụng dịch vụ mạng từ các hãng này. Apple cũng thường xuyên tung ra các bản nâng cấp cho hệ điều hành iPhone OS trên các dòng máy iPhone nhằm khắc phục lỗi nhưng mục đích chính vẫn là khóa mạng trở lại đối với các máy iPhone đã bẻ khóa để mở mạng, tránh làm phật lòng các đối tác lớn của mình..

Gánh nặng đè lên vai người dùng

Về phía người tiêu dùng tại những thị trường mà iPhone chưa chính thức có mặt, mặc dù đã bỏ ra một số tiền không nhỏ để sở hữu chiếc điện thoại thời thượng này cho dù là phiên bản bẻ khóa nhưng mối nguy hiểm khi sử dụng sản phẩm không hợp pháp đã bắt đầu lộ rõ.

Người dùng iPhone bẻ khóa bắt đầu gặp nguy hiểm từ nhiều mối nguy cơ bảo mật đe dọa toàn bộ dữ liệu được chứa bên trong máy lẫn việc phát tán mã độc dạng bắt cầu sang những máy iPhone khác mà chủ nhân của chúng có trong danh sách liên hệ (Contacts) của nạn nhân. Nguy hiểm hơn là các biến thể mới có khả năng quét các iPhone có trong mạng để gia tăng mức độ lây nhiễm thay vì bó gối trong danh sách liên hệ. Ngoài nguy cơ mất dữ liệu, bị chiếm quyền điều khiển máy, người dùng iPhone bẻ khóa sẽ còn phải nhận những hóa đơn tính cước tin nhắn SMS mà sâu rải thảm để tìm nạn nhân mới.

Không có một biện pháp hỗ trợ nào từ Apple, đó là lẽ đương nhiên vì iPhone bẻ khóa là không hợp pháp. Người dùng iPhone bẻ khóa nên thay đổi ngay mật khẩu mặc định của máy chủ SSH đã cài đặt, không giữ mật khẩu mặc định là “alpine” hay mật khẩu rỗng.

* (Đón xem phương thức hóa giải sâu và thay đổi mật khẩu mật định trên Nhịp sống số)

OpenSSH chỉ được cài đặt thông qua ứng dụng Cydia khi iPhone hay iPod Touch là phiên bản bẻ khóa (jailbreak). Phiên bản iPhone có bản quyền sử dụng được cung cấp từ các nhà mạng hợp tác với Apple không cài đặt tập lệnh và SSH. Tất cả các dòng iPhone ở Việt Nam đều là phiên bản lậu (jailbreak) nhưng còn tùy thuộc vào phương thức bẻ khóa mà SSH có được mở mặc định hay không.

THANH TRỰC tổng hợp

Nguồn : http://vn.news.yahoo.com

76 mẹo vặt trong Windows 98, Me, 2000, XP


– Phần I

Một số phương pháp dễ dàng và nhanh gọn để thuần phục Windows,… từ việc hiệu chỉnh tốc độ đến kiểm tra bảo mật hay các thủ thuật giải quyết hỏng hóc.

  1. Làm xuất hiện lại cây thư mục:
  2. Tùy biến ở dạng Details, phần 1:
  3. (2K, ME, XP) Tùy biến ở dạng Details, phần 2:
  4. Hiển thị cửa sổ lớn hơn:
  5. Ẩn cây thư mục tự động:
  6. Hiển thị các tập tin ẩn:
  7. (2K, ME, XP) Mở rộng cửa sổ thư mục:
  8. (XP) Xem được nhiều Thumbnail hơn:
  9. (XP) Đưa thư mục đến thanh tác vụ:
  10. Xem dung lượng ổ đĩa:
  11. (XP) Dồn đĩa, phần1:
  12. (XP) Tự động mở CD theo nội dung:
  13. (XP) Dồn đĩa, phần 2:
  14. (ME, XP) Dồn đĩa, phần 3:
  15. (XP, 2K) Chọn tên cho ổ đĩa:
  16. Mẹo vặt trong Windows: Bảo mật là trên hết – Phần tiếp
  17. (XP) Xử lý khi quên password, phần 1:
  18. (XP) Xử lý khi quên password, phần 2:
  19. (2K, XP) Power User:
  20. Làm người quản trị không thường xuyên:
  21. (XP) Chọn hành động cho máy quay:
  22. (XP Pro) Giữ các bí mật:
  23. Không hiển thị thông tin cá nhân với người dùng khác:
  24. (ME, XP) Quay ngược thời gian:
  25. (ME, XP) Đặt điểm phục hồi cho hệ thống:
  26. (XP) Tùy biến chức năng phục hồi, phần 1:
  27. (ME) Tùy biến chức năng phục hồi, phần 2:
  28. Tìm giải pháp trong Safe Mode:
  29. (2K, XP) Phục hồi với Registry:
  30. (2K, XP) Chép các thông báo lỗi:
  31. Chụp ảnh thông báo lỗi:
  32. Tìm giúp đỡ trong Google Groups:
  33. (XP) Cho Windows tự cài đặt mạng:
  34. (XP) Thiết lập mạng không dây:
  35. (XP) Nối đến mạng không dây không an toàn:
  36. (XP) Tự cấu hình mạng không dây:
  37. (XP) Chuyển nhanh giữa các tài khoản:
  38. (XP) Vô hiêu hóa chức năng chuyển nhanh giữa các tài khoản người dùng:
  39. (XP) Vô hiệu hóa tài khoản thay vì xóa chúng:
  40. (XP) Cứu tập tin từ một tài khoản bị xóa:
  41. (XP) Run your ancient apps (XP):
  42. Sửa các uninstraller bị hỏng:
  43. Cập nhật driver cho card đồ họa:
  44. (2K, ME, XP) Tháo thiết bị an toàn:
  45. Mẹo vặt trong Windows – Phần V
  46. (XP) Đừng quên khi có số lượng thư lớn:
  47. (All) Sử dụng tất cả các tính năng mà hệ điều hành cung cấp cho bạn:
  48. (2K, ME, XP) Tăng tốc độ cho các ổ đĩa của bạn:
  49. (2K, ME, XP) Cập nhật tự động:
  50. (ME, XP) Bỏ các cập nhật tự động:
  51. (98, 2K) Thêm tiện ích cập nhật:
  52. (All) Cập nhật bằng tay:
  53. Bật tính năng ghi CD:
  54. (XP) Dùng của nhà cung cấp thứ 3:
  55. (XP) Thay đổi nơi lưu trữ ảnh của CD:
  56. Giảm tốc độ ghi:
  57. (XP) Ghi các tập tin lên CD:
  58. Tạo các CD nhạc với Windows Media Player:
  59. Tạo CD nhạc với một phần mềm khác:
  60. Ký tự đặc biệt:
  61. Bật các điều khiển trong Player:
  62. Phóng to thu nhỏ màn hình khi xem DVD:
  63. Điều khiển tốc độ  DVD:
  64. Điều khiển DVD bằng bàn phím:
  65. (XP) Giảm cảm giác khó chịu khi chạy ứng dụng, phần 1:
  66. (98, 2K, ME) Giảm cảm giác khó chịu khi chạy ứng dụng, phần 2:
  67. (XP) Thiết lập các quyền ưu tiên:
  68. Kiểm tra tính tương thích với hibernate:
  69. Cài đặt chế độ Hibernate, phần 1:
  70. Cài đặt chế độ Hibernate, phần 2:
  71. Đường biên lớn:
  72. Xây dựng một thanh tác vụ lớn hơn:
  73. Ẩn thanh tác vụ:
  74. Bỏ các biểu tượng trình đơn lớn:
  75. (98) Dọn dẹp màn hình desktop, phần 1:
  76. (2K, ME, XP) Dọn dẹp màn hình desktop, phần 2:

 Làm xuất hiện lại cây thư mục:

Bạn mở một folder, nhưng không có thấy cây thư mục nào xuất hiện bên trái cửa sổ cả. Bạn chỉ cần click lên biểu tượng Folders nằm trên thanh công cụ chuẩn (Standard Toolbar) nếu bạn sử dụng Windows 2000, Me, XP, hoặc chọn Menu View, Explorer Bar, Folders.

Tùy biến ở dạng Details, phần 1:

Để thay đổi thứ tự của các cột Name, Size, Type, Date Modified, và những cột khác trong cửa sổ duyệt tập tin ở dạng Details, bạn chỉ cần đặt con trỏ chuột lên đầu mỗi cột và kéo qua trái hoặc phải tùy bạn.

(2K, ME, XP) Tùy biến ở dạng Details, phần 2:

Tại sao chúng ta lại để các cột được hiển thị theo mặc định của Windows? Nếu muốn thay đổi, bạn chỉ cần nhấp phải chuột lên vị trị bất kỳ ở đầu cột, và chọn một mục trong trình đơn chưa được đánh dấu để thêm cột chứa thông tin đó, ngược lại bạn sẽ gỡ bỏ đánh dấu để bỏ đi cột tương ứng. Chọn More trên trình đơn hiển thị khi nhấp chuột phải (có thể dùng View, Choose Columns hay View, Choose Details trên trình đơn chính) để tùy biến thông qua hộp thoại.

Hiển thị cửa sổ lớn hơn:

Bất kỳ khi nào bạn muốn xem nhiều thông tin hiển thị hơn về một folder hoặc trình duyệt Internet Explorer trên một màn hình, cách đơn giản là bạn nhấn phím F11 để xem cửa sổ đó ở chế độ toàn màn hình. Nhấn F11 nếu muốn xem lại ở chế độ bình thường. Nếu sử dụng Windows 2000, Me, hoặc XP, bạn có thể thêm một nút nhấn để chuyển đổi giữa 2 chế độ bằng cách nhấp phải chuột ở Standard Toolbar và chọn Customize. Nhấn Full Screen ở bên dưới Available Tollbar buttons, sau đó chọn Add rồi nhấn Close.

Ẩn cây thư mục tự động:

Ở chế độ toàn màn hình, bạn có thể làm cho cây thư mục (hoặc bất kỳ tùy chọn nào thông qua View, Explorer Bar) biến mất để bạn có được một vùng quan sát rộng hơn, và cho xuất hiện lại khi bạn rê chuột đến cạnh bên trái của màn hình. Nhấn lên nút pushpin (xem hình 1) ở đỉnh của khung bên trái cửa sổ để Explorer Bar không còn cố định vào cửa sổ nữa và di chuyển chuột về phía phải màn hình để ẩn nó.

Hiển thị các tập tin ẩn:

Bình thường, windows giấu nhiều tập tin hệ thống, điều này có thể làm cho việc chỉnh sửa trở nên khó khăn. Để thấy hết tất cả các tập tin, chọn Tools, Folder Options, View trong bất kỳ cửa sổ thư mục hay Explorer nào. Trong danh sách Advanced settings, chọn Show hidden files and folders (hoặc Show all files nếu trong Windows 98). Trong những phiên bản khác với Windows 98, bỏ dấu đánh đấu trước nhãn Hide protected operating system files (Recommended). Nhấn Yes và sau đó là OK.

(2K, ME, XP) Mở rộng cửa sổ thư mục:

Nếu cửa sổ thư mục của bạn có một cửa sổ con ở bên trái dùng để liên kết với các tài nguyên hoặc các tác vụ khác mà bạn không bao giờ sử dụng. Muốn có tầm nhìn lớn hơn khi hiển thị các tập tìn và thư mục bạn chọn Tools, Folder Options, Use Windows Classic Folders, OK. Thực hiện xong các động tác này thì Explorer Bar và shortcut của các “common task” sẽ không hiển thị nữa.

(XP) Xem được nhiều Thumbnail hơn:

TTO – Bạn có thể điều chỉnh sao cho hiển thị nhiều biểu tượng hơn ở khung bên phải trong cửa sổ Explorer khi xem ở chế độ Thumbnails, bằng cách làm ẩn các tên xuất hiện bên dưới các biểu tượng đi. Nhấn lên một thư mục khác trong khung chứa cây thư mục để thay đổi chế độ hiển thị, sau đó giữ phím Shift khi chọn trở lại thư mục cũ, khi đó các tên xuất hiện bên dưới các biểu tượng sẽ không được hiển thị.

(XP) Đưa thư mục đến thanh tác vụ:

Nếu bạn thích khung tác vụ trong cửa sổ Explorer nhưng muốn hiển thị các tác vụ đó khi hiển thị với phù hợp với nội dung của thư mục. Nhấp chuột phải lên biểu tượng nằm bên góc trên bên trái của cửa sổ, chọn Properties, Customize và chọn những mô tả thích hợp nằm ở phía dưới nhãn Use this folder type as template.

Xem dung lượng ổ đĩa:

Bạn có thường tự hỏi làm thế nào để xem dung lượng ổ đĩa bạn đang dùng hoặc dọn dẹp nó? Rất đơn giản, bạn nhấp phải chuột lên biểu tượng của ổ đĩa muốn xem trong cửa sổ Explorer (dưới My Computer) và chọn Properties. Bạn sẽ thấy một Biểu đồ hình tròn hiển thị dung lượng sử dụng của ổ đĩa. Có một nút để hiện thị tiện ích Disk Cleanup, và một the Tools liệt kê ra các tiện ích bảo trì khác.

(XP) Dồn đĩa, phần1:

Nếu ổ đĩa của bạn được định dạng theo NTFS, bạn có thể nén các tập tin và thư mục lại để tận dụng không gian đĩa. Chọn các tập tin hoặc thư mục mà bạn muốn nén, nhấp chuột phải lên chúng và chọn Properties. Trên thẻ General, chọn Advance. Đánh dấu lên mục Check Compress contents to save disk space và nhấn OK. Bạn có thể bị yêu cầu chỉ ra những tập tin và thư mục cần đưa vào.

(XP) Tự động mở CD theo nội dung:

Khi bạn chèn một đĩa CD vào ổ đĩa CD-ROM, Windows sẽ đưa ra một số hành động để bạn lựa chọn. Bạn có thể trả lời một lần cho mỗi loại nội dung (như âm nhạc), nhưng nếu bạn muốn tắt chức năng này, nhấp phải chuột lên ổ đĩa CD trong cửa sổ Explorer và chọn Properties, ở trong thẻ AutoPlay, chọn một nội dung từ danh sách các loại nội dung ở phía trên, và chọn hành động thích hợp tho ý bạn bên dưới. Để tắt chức năng này đối với loại nội dung nào bạn chỉ cần chỉ định cho nội dung cho nó bên dưới là Take no action và nhấn OK.

(XP) Dồn đĩa, phần 2:

Để nén toàn bộ một phân vùng NTFS trên đĩa cứng, nhấp phải chuột lên biểu tượng của ổ đĩa trong cửa sổ Explorer và chọn Properties. Đánh dấu chọn lên mục Compress drive to save disk space, sau đó nhấn OK hoặc Apply. Khi đó sẽ xuất hiện yêu cầu xác nhận, tại đó bạn chọn nén tất cả các thư mục con và tập tin (không chỉ trong thư mục gốc) và nhấn OK.

(ME, XP) Dồn đĩa, phần 3:

Bạn cũng có thể nén các tập tin một cách tự động bằng cách đưa chúng vào thư mục đã được nén. Để tạo thư mục này, đơn giản bằng cách nhấn phải chuột ở bất kỳ cửa sổ thư mục nào hay trên màn hình desktop, chọn New, Compressed Folder (trong Windows Me) hoặc New, Compressed (zipped) Folder (trong Windows XP). Nếu bạn không thấy chức năng này, thì nên kiểm tra lại để chắc rằng nó đã được cài đặt.

(XP, 2K) Chọn tên cho ổ đĩa:

Nếu bạn muốn đặt lại tên tên của các ổ đĩa, hãy đăng nhập vào Windows với quyền quản trị (Administrator), chọn Start, Run, nhập lệnh diskmgmt.msc và nhấn Enter. Nhấp phải chuột lên một ổ đĩa phía dưới của cửa sổ và chọn Change Drive Letter and Path. Chọn Edit hoặc Change, lựa một trong những ký tự đặt tên chưa được sử dụng từ danh sách, nhấn OK, trả lời mọi nhắc nhở xác nhận, và nhấn OK lần nữa.

Mẹo vặt trong Windows: Bảo mật là trên hết

Tin vào bạn bè, nhưng giữ lại các thẻ. Tin vào trí nhớ của mình, nhưng bạn phải luôn giữ bên mình đĩa thiết lập lại password cho trường hợp bạn quên Password của Windows XP. Đầu tiên, bạn phải có một đĩa mềm trống đã được định dạng, và nhập Control Panel\ User Accounts vào thanh Address của cửa sổ Explorer hoặc Internet Explorer.

Nhấn Enter, lựa Account của bạn, nhấn Prevent a forgotten password  trong danh sách Related Tasks, và sau đó thực hiện các bước được mô tả cụ thể trong Forgtoten Password Wizard.

(XP) Xử lý khi quên password, phần 1:

Nếu bạn không có đĩa thiết lập lại password, đăng nhập vào hệ điều hành với một account quản trị khác, mở User Accounts trong Control Panel (mục 16), chọn account mà bạn quên password, chọn Change the password, và thực hiện các hướng dẫn sau đó để cài  lại password.

(XP) Xử lý khi quên password, phần 2:

Nếu bạn không có bất kỳ account quản trị nào khác, khởi động lại máy nhấn phím F8 cho đến khi bạn thấy màn hình cho phép chọn chế độ để khởi động (mục 28). Bạn chọn khởi động ở chế độ Safe mode, và nhấn Enter. Khi thấy màn hình Welcome xuất hiện, chọn Administrator (đây là một account ẩn mặc định không cần password). Thực hiện các bước để đặt lại password, khởi động lại máy.

(2K, XP) Power User:

Khi bạn đăng nhập vào máy với quyền quản trị, hệ thống của bạn có thể bị tấn công bởi các chương tình Trojan horse hoặc những rủi ro khác. Khi bạn đăng nhập vào máy với quyền Power User, bạn có thể tránh được những rủi ro này và  sử dụng được đầy đủ các tính năng của windows (bạn có thể chuyển qua quyền Administrator một cách dễ dàng khi cần thiết, xem phân dưới). Để giảm quyền, bạn chọn Start, Run, nhập lệnh lusrmgr.msc và nhấn Enter. Chọn Groups và nhấn đúp chuột lên Administrators. Nhưng bắt buột bạn phải có một account được liệt kê ở danh sách Members mà bạn có thể dùng khi cần đầy đủ các quyền của người quản trị. Chọn account muốn giảm quyền, chọn Remove, và nhấn OK, Nhấp đúp chuột lên Power Users, nhấn Add, đánh tên Account của bạn, và nhấn OK lần thứ 2.

Làm người quản trị không thường xuyên:

Power user không cần phải đăng xuất và đăng nhập trở lại để quay lại với quyền quản trị nhằm chạy những chương trình chỉ thực thi được dưới quyền này. Để làm điều này, giữ phím Shift và nhấn phải chuột lên chương trình có thể thực thi (*.exe) ở cửa sổ Explorer hoặc bất kỳ shortcut nào của nó. Chọn Run as, sau đó lựa Run the program as the following user (nếu trong Windows 2000) hoặc The Following User (trong Windows XP), và nhập vào username, password (chọn domain nều cần) của một account có quyền quản trị, rồi nhấn OK

(XP) Chọn hành động cho máy quay:

 

Lúc đầu khi kết nối một máy quay kỹ thuật số với máy tính của mình, bạn có thể chọn một thao tác và đánh dấu Always user this program for this action để tránh những lời gợi ý sẽ xuất hiện sau này khi kết nối. Nhưng nếu bạn muốn thay đổi thành một hành động khác? Để thực hiện điều này, kết nối lại với máy quay,  nhấp phải chuột lên biểu tượng của nó trên cửa sổ Explorer, chọn Properties. Sử dụng các cài đặt hiển thị trong thẻ Events để chọn hành động hệ điều hành sẽ thực hiện khi kết nối với máy quay.

(XP Pro) Giữ các bí mật:

Để bảo vệ các tập tin và thư mục có thông tin nhạy cảm trong các ổ đĩa có định dạng NTFS, sử dụng những chương trình mã hoá của Windows. Chọn những tập tin và thư mục không nén để mã hoá, nhấp phải chuột lên chúng, và chọn Properties. Trên thẻ General, chọn Advanced. Đánh dấu vào Encrypt contents to secure data và nhấn OK. Chỉ ra các tập tin và thư mục được thực hiện. Các tập tin và thư mục này chỉ có thể được truy xuất bởi người dùng mã hoá chúng. Để gở bỏ tính năng này, bỏ đánh dấu lên Encrypt contents to secure data. (việc mã hoá này không có ở Windows XP Home).

Không hiển thị thông tin cá nhân với người dùng khác:

 

Bất kỳ người quản trị nào cũng đều thấy các tập tin trên màn hình destop hoặc trong thư mục My documents của bạn, và ngay cả ở thư mục cá nhân của bạn bằng cách tìm trong thư mục Document Setting. Mẹo này chỉ có tác dụng trên những ổ đĩa có định dạng NTFS. Đầu tiên mở thư mục Documents hoặc Setting, nhấp phải chuột lên thư mục mà bạn muốn giữ riêng, chọn Properties. Nhấn Sharing, đánh dấu lên nhãn Make this folder private, và chọn OK.

(ME, XP) Quay ngược thời gian:

TTO – Khi máy tính của bạn có những hành động khác lạ, bạn hãy sử dụng System Restore để quay lại trạng thái ổn định trước đó. Chọn Start, Programs (All Programs nếu là Windows XP), Accessories, System Tools, System Restore, chọn Restore my computer to an earlier time, Next, và thực hiện theo những hướng dẫn.

(ME, XP) Đặt điểm phục hồi cho hệ thống:

Bất kỳ khi nào bạn muốn thay đổi hệ thống, bạn nên tạo một điểm phục hồi hệ thống trước khi bắt đầu để nếu có lỗi thì cũng có thể lấy lại tình trạng này. Mở System Restore như đã mô tả ở mục trước, chọn Create a Restore Point, nhấn Next, và thực hiện theo những hướng dẫn xuất hiện. Lưu ý: tạo điểm phục hồi bằng tay như trên thì không cần thiết trước khi bạn cài đặt phần mềm, cập nhật hoặc cài đặt thiết bị, Windows sẽ làm việc này một cách tự động dùm bạn.

(XP) Tùy biến chức năng phục hồi, phần 1:

Để chọn ổ đĩa cho System Restore theo dõi sự thay đổi của hệ thống và cài đặt dung lượng của đĩa được dùng cho việc sao lưu này. Bạn nhấp phải chuột lên My Computer và chọn Properties. Chọn thẻ System Restore, lựa ổ đĩa, nhấn Settings và đặc cấu hình theo ý muốn của bạn.

(ME) Tùy biến chức năng phục hồi, phần 2:

Điều chỉnh dung lượng đĩa System Restore sử dụng để sao lưu trong Windows Me thì khác hơn một chút. Nhấp phải chuột trên My Computer, chọn Properties, Performance, File System, và phía dưới Hard disk, bạn kéo thanh trượt System Restore disk space user để chọn dung lượng bạn mong muốn. Lưu ý, nhấn Disable System Restore trong thẻ Troboleshooting của System Properties để tắt chức năng System Restore đi.

Tìm giải pháp trong Safe Mode:

Nếu Windows của bạn bị treo hay thực hiện một số hành động không đúng. Khởi động lại máy, và nhấn F8 trước khi vào Windows (bạn có thể nhấn nhiều lần đến khi Windows nhận được yêu cầu này). Khi đó sẽ xuất hiện một trình đơn Advance Options. Sử dụng các phím di chuyển để chọn Safe Mode, rồi nhấn Enter để chạy Windows với một số lượng driver hạn chế. Nếu gặp may, bạn có thể bỏ đi hành động gây ra lỗi đó và khởi động lại máy.

(2K, XP) Phục hồi với Registry:

Nếu bạn khởi động Windows ở chế độ Safe Mode nhưng không giải quyết được các vấn đề gây ra sự cố ở Windows. Bạn cũng truy cập vào trình đơn Advanced Option như mục 28, nhưng chọn Last Known Good Configuration và nhấn Enter. Việc khởi động Windows như thế này sẽ sử dụng phiên bản sau cùng của Registry, đây là phiên bản Windows khởi động thành công. Sẽ không có tập tin nào bị Remove.

(2K, XP) Chép các thông báo lỗi:

Khi Windows cảnh báo với bạn là có vài vấn đề rắc rối, không điều khiển được. Nếu bạn muốn giữ lại các lời thông báo này để gởi tới bộ phận kỹ thuật, hoặc các nhân viên sửa chửa.  Nhấn Ctrl – C để sao chép các thông báo này vào Clipboard, sau đó mở email gửi đến bộ phận kỹ thuật của bạn, nhấn Ctrl – V để dán nội dung thông báo này vào email, và gửi đi.

Chụp ảnh thông báo lỗi:

Nếu bạn không thể lấy được các thông báo lỗi như ở phần trên, nhấn Alt – Print Screen (tên của phím này có thể được viết tắt trên bàn phím của bạn) để ghi lại hình ảnh của hộp thoại thông báo lỗi. Đưa chúng vào email (nếu có hỗ trợ đồ hoạ) hoặc vào trong công cụ xử lý văn bản. Bạn có thể dán nó vào trong tiện ích xử lý ảnh Paint của Windows bằng cách mở chương trình này và chọn Edit, Paste. Lưu hình này dưới dạng tập tin ảnh gif hoặc bmp,…  tùy bạn. Sau đó đính kèm tập tin này vào email rồi gởi đi.

Tìm giúp đỡ trong Google Groups:

Để tìm sự giúp đỡ trên mạng, bạn nhập vào vài từ hay tất cả từ trong thông báo lỗi của Windows vào trong ô nhập liệu của màn hình tìm kiếm chính của Google. Nếu chúng cũng không giúp đỡ được bạn sửa lỗi này, nhấn chọn thẻ Groups trên trang hiển thị kết quả tìm kiếm của Google bạn có thể tìm thấy các thảo luận có liên quan đến vấn đề của bạn.

(XP) Cho Windows tự cài đặt mạng:

TTO – Bước đầu tiên bạn phải kết nối các máy lại thành một mạng, các bước trong Windows XP’s Network Setup Wizard sẽ giúp bạn một cách chi tiết. Để chạy được wizard này bạn chọn Start, Run, đánh lệnh netsetup và nhấn Enter.

(XP) Thiết lập mạng không dây:

Khi bạn cắm một thiết bị mạng không dây vào máy tính, Windows XP sẽ hiển thị hộp thoại Connect to Wireless Network. Nếu nó không xuất hiện, bạn nhấp phải chuột lên biểu tượng wireless – network ở khay hệ thống, và chọn View Available Wireless Networks. Nếu bạn không thấy xuất hiện biểu tượng này ở khay hệ thống, bạn vào cửa sổ Explorer trên thanh Address nhập vào Control Panel\ Network Connections, và nhấp phải chuột lên biểu tượng Wireless Network Connection. Chọn kết nối không dây và  nhấn Connect.

(XP) Nối đến mạng không dây không an toàn:

Nếu nút Connect bị vô hiệu hóa (có màu xám) ở hộp thoại Wireless Network Connection, lúc đó mạng có thể không có tính năng an toàn Wired Equivalent Privacy hoặc tính năng này mới hơn Wi-Fi Protected Access. Để bỏ qua chức năng này bạn đánh dấu vào Allow me to connect to the selected wireless network, even though it is not secure(xem hình 3). Nên nhớ rằng việc làm này của bạn có thể làm bạn gặp phải một số rủi ro.

(XP) Tự cấu hình mạng không dây:

Thông thường Windows cấu hình mạng không dây cho bạn tự động (nó được gọi là Wireless Zero Configuration), nhưng nếu thiết bị không dây có driver riêng cho nó, bạn cần phải tắt tính năng này của Windows đi. Để làm điều này, nhấn đúp chuột lên biểu tượng Wireless Network Connection của cửa sổ Network Connection (mô tả ở mục 34), hoặc nhấn lên biểu tượng được thu nhỏ ở khay hệ thống, Chọn Properties, và trong hộp thoại Wireless Network Connection Properties , nhấn lên Wireless Networks. Bỏ đánh dấu ở Use Windows to configure my wireless network settings  và nhấn OK.

(XP) Chuyển nhanh giữa các tài khoản:

Nếu máy của bạn có đủ vùng nhớ, bạn có thể chuyển qua lại giữa các tài khoản mà không cần phải log off ra khỏi account đang sử dụng. Để làm điều này bạn nhấn Start, Log off, Switch User. Điều này giúp tiết kiệm thời gian khi chỉ cần một số thao tác nhỏ có thể chuyển qua một tài khoản khác. Nhưng bạn đừng nên tạo ra thói quen này vì nó sẽ làm cho hệ thống của bạn chậm, đặc biệt khi bạn đang chạy những chương trình lớn chẳng hạn như Game, các tiện ích hệ thống, và ứng dụng khác.

(XP) Vô hiêu hóa chức năng chuyển nhanh giữa các tài khoản người dùng:

Có một số nhược điểm khi thực hiện Fast User Switching. Với đặc điểm này bạn sẽ không thể sử dụng được chức năng Offline Files của Windows, chức năng này là chức năng tự động download các trang web để bạn xem ngoại tuyến. Để tắt chức năng Fast User Switching, bạn vào cửa sổ Explorer hoặc Internet Explorer và nhập vào Control panel \ Use Accounts ở thanh Address , sau đó nhấn Enter. Nhấn chọn Change the way users log on or off, bỏ đánh dấu ở mục User Fast User Switching và cuối cùng nhấn Apply Options.

(XP) Vô hiệu hóa tài khoản thay vì xóa chúng:

Nếu một người đi xa không sử dụng tài khoản của họ, đừng nên xoá tài khoản đó đi vì lý do bảo mật. Sau này, khi tạo lại tài khoản với tên như vậy, nó sẽ không có đầy đủ quyền như trước nữa, cũng như nó không cho truy cập vào các tập tin mã hóa trước đó(xem mục 22). Nếu bạn cho là những người này có thể sử dụng lại những tài khoản đó, bạn có thể vô hiệu hoá các tài khoản này thay vì xoá nó đi (nên nhớ rằng chức năng này không sử dụng được cho Windows XP Home): nhấn Window-R, gõ lệnh lusrmgr.msc và nhấn Enter. Chọn vào biểu tượng của thư mục Users, và nhấn đúp chuột lên tên của người dùng tài khoản mà bạn muốn vô hiệu hoá. Đánh dấu lên Account is disabled  và nhấn OK(Xem hình 5), để phục hồi tài khoản này đơn giản bạn chỉ cần bỏ đánh dấu đi.

(XP) Cứu tập tin từ một tài khoản bị xóa:

Nếu bạn chắc chắn rằng sẽ không cần tài khoản đã đề cập ở trên nữa, bạn có thể xóa nó đi nhưng vẫn giữ lại các tập tin trong thư mục cá nhân. Đầu tiên, bạn đăng nhập vào Windows với quyền quản trị, ở thanh Address của cửa sổ Explorer hoặc Internet Explorer nhập vào Control Panel\User Accounts và nhấn Enter. Tiếp theo chọn tên tài khoản muốn xoá, chọn Delete the account, nhấn Keep Files, và cuối cùng chọn Delete Account. Mặc dù tài khoản đã bị xoá đi nhưng tất cả các tập tin ở màn hình desktop, và thư mục My Documents sẽ được đặt trong một thư mục mới trên desktop của tài khoản người quản trị, nhưng hãy nhớ rằng tất cả các email hoặc các cài đặt khác ứng với tài khoản trên sẽ bị mất đi vĩnh viễn.

(XP) Run your ancient apps (XP):

Nếu có một ứng dụng thuộc phiên bản trước không chạy được trên Windows XP (và bạn không có một bản cập nhận nào của phần mềm này), nhấp phải chuột lên biểu tượng shortcut của chương trình này và chọn Properties. Chọn Compatibility, Run this program in compatibility mode for, và chọn phiên bản Windows thích hợp (xem hình 6), nhấn OK. Cảnh báo an toàn: đừng bao giờ chạy một chương trình diệt virus, một chương trình dồn đĩa, hoặc bất kỳ ứng dụng tiện ích nào dưới một phiên bản của Windows mà không dành cho nó. Việc này có thể làm hỏng hệ thống.

Sửa các uninstraller bị hỏng:

Nếu bạn muốn gỡ bỏ một chương trình nào đó bằng cách sử dụng Add or Remove Programs trong Control Panel, nhưng chương trình uninstaller không chạy, nguyên nhân là do một số hoặc tất cả các tập tin của nó đã bị xoá. Đơn giản bạn chỉ cần cài đặt lại chương trình đó vào đúng thư mục củ và sử dụng Add or Remove Programs  lại để gỡ nó ra.

Cập nhật driver cho card đồ họa:

Có nhiều trục trặc phổ biến trong Windows được tìm ra nguyên nhân là do những lỗi của các driver của card đồ hoạ gây ra, có thể các driver này bị hỏng, hoặc lỗi thời. Nếu bạn không tìm ra cách giải quyết các vấn đề này, bạn nên vào trang web của hãng sản xuất ra card đồ hoạ mà bạn đang sử dụng để download về driver thích hợp cho card đồ hoạ của bạn.

(2K, ME, XP) Tháo thiết bị an toàn:

Bạn có thể cắm vào và tháo ra các thiết bị ngoại vi (như cameras) mà không xảy ra vấn đề gì. Tuy nhiên có vài thiếc bị khi bạn thực hiện thao tác cắm và tháo, nó sẽ gây ra những rủi ro lớn đến máy vi tính làm ảnh hưởng đến tính ổn định của PC. Chẳng hạn như bạn tháo một card mạng ra từ một máy notebook, hoặc một ổ cứng gắn cắm ngoài, việc này sẽ làm mất dữ liệu, nếu các dữ liệu này vẫn còn đang được truy xuất. Để giải quyết các vấn đề này, bạn cần nhấp phải chuột lên biểu tượng Safely Remove Hardware trên khay hệ thống (đầu tiên có thể bạn cần nhấn vào biểu tượng mũi tên Show hidden icons). Từ trình đơn xuất hiện bạn chọn thiết bị phần cứng cần được tháo ra, lúc này bạn có thể tháo thiết bị ra. Nếu bạn không muốn hiển thị popup-menu bạn có thể nhấp đúp chuột lên biểu tượng Safely Remove Hardware lúc này sẽ xuất hiện một hộp thoại để bạn thao tác.

Mẹo vặt trong Windows – Phần V

Sử dụng Files and Settings Transfer Wizard là cách tốt nhất để chuyển tất cả các cài đặt trên Windows của bạn từ máy tính này đến máy tính khác. Bạn có thể chuyển tất cả các file và cài đặt của Internet Explorer, Outlook Express và các phần khác trong Windows thông qua mạng hoặc dùng đĩa tháo lắp.

Trước tiên cài tất cả các ứng dụng của bạn trên máy mới, sau đó chọn Start, All Programs, Accessories, System Tools, Files and Settings Transfer Wizard.

(XP) Đừng quên khi có số lượng thư lớn:

Nếu bạn chọn Setting only khi chạy Files and Settings Transfer Wizard và sử dụng đĩa mềm để di chuyển các cài đặt. Windows chỉ chuyển các thư trong Outlook Express khi số lượng thư có thể chứa hết trong đĩa. Hãy sử dụng các đĩa có dung lượng lớn hơn sao cho nó có thể chứa tất cả các thư điện tử hiện có trên máy của bạn.

(All) Sử dụng tất cả các tính năng mà hệ điều hành cung cấp cho bạn:

Không phải tất cả các công cụ hay tiện ích nào của Windows mà bạn cần đều được cài đặt trên máy tính. Mở bất kỳ cửa sổ thư mục hoặc Explorer, sau đó nhập vào thanh Address nội dung Control Panel\ Add/Remove Programs (nếu bạn dùng Windows 98, 2000 hoặc Me) hay Control Panel\ Add or Remove Programs nếu dùng Windows XP. Nhấn vào nút Windows Setup hoặc Add.Remove Windows Components, chọn một thành phần, và nhấn nút Details (nếu có). Bạn có thể nhấn vào nút Details thêm lần nữa để thấy thêm một số thành phần con. Chọn các thành phần mà bạn muốn cài đặt. Có thể bạn sẽ được yêu cầu chèn đĩa Windows CD vào trong khay đĩa để cài đặt các thành phần được chọn.

(2K, ME, XP) Tăng tốc độ cho các ổ đĩa của bạn:

Để tạo shortcut thực hiện chức năng làm sạch ổ đĩa của bạn theo cách mà bạn muốn, chọn Start, Run và đánh vào câu lệnh cleanmgr/sageset:, sau đó nhập vào một số từ 0 đến 65535, rồi nhấn Enter (số nhập vào biểu diễn cho chức năng mà bạn muốn chọn. Chọn các cài đặt mà bạn muốn rồi nhấn OK. Để tạo một shortcut thực hiện chức năng Disk Cleanup, nhấn chuột phải trên Desktop hoặc trong một thư mục và chọn New, Shortcut. Trong ô nhập liệu, đánh vào lệnh cleanmgr /sagerun:x (thay x bằng số mà bạn nhập vào ở trên), sau đó thực hiện các hướng dẫn để hoàn thành việc tạo shortcut.

(2K, ME, XP) Cập nhật tự động:

Để tự động thực hiện tiện ích Windows Update trong Windows XP. Nhấn chuột phải vào My Computer, chọn Properties, và nhấn chọn thẻ Automatic Updates. Trong Windows 2000 và XP, chọn Keep my computer up to date. Trong các phiên bản còn lại, chọn một trong tùy chọn được đưa ra (xem hình 8).

(ME, XP) Bỏ các cập nhật tự động:

Windows tạo ra một điểm phục hồi trước khi nó thực hiện việc cập nhật. Xem lại mục 24 để thấy các hướng dẫn bắt đầu System Restore. Trên màn hình Select a Restore Point, chọn ngày cập nhật, chọn điểm phục hồi trước khi có cập nhật này, chọn Next, và thực hiện theo chỉ dẫn.

(98, 2K) Thêm tiện ích cập nhật:

Phiên bản Windows 98 và 2000 trước Service Pack 3 cần tiện ích Windows Critical Update Notification đề kiểm tra các phần đã được cập nhật tự động. Nhấn đúp chuột lên biểu tượng Scheduled Tasks trong khay hệ thống hoặc trong Control Panel. Nếu tiện ích chưa có ở đó, vào trang windowsupdate.microsoft.com, chọn Pick updates to install, sau đó chọn Critical Updates and Service Packs. Tìm và chọn tiện ích này.

(All) Cập nhật bằng tay:

Để làm mới Windows theo cách củ, bạn sẽ tự tìm các miếng vá có sẵn để cập nhật: chọn Start, Windows Update or Start, All Programs, Windows Update và thực hiện các hướng dẫn tại trang Windows Update.

Bật tính năng ghi CD:

Với một đĩa trắng được chèn vào trong ổ đĩa ghi CD, nhấn Windows-E để mở cửa sổ Explorer, nhấp chuột phải trên biểu tượng của ổ đĩa, chọn Properties, Recording, và chắc chắn rằng Enable CD recording on this drive đã được chọn (xem hình 9)

Chú ý rằng các thẻ và tùy chọn trong hộp thoại CD Drive Properties là đặc trưng của ổ đĩa, những cái khác thì thay đổi tùy theo ổ đĩa.

(XP) Dùng của nhà cung cấp thứ 3:

Nếu bạn sử dụng chức năng ghi CD bằng phần mềm khác như Roxio Easy CD & DVD Creator (http://www.roxio.com/), thực hiện các bước giống như mục 53, nhưng không chọn Enable CD recording on this drive (hoặc tùy chọn tương đương trên ổ đĩa của bạn). Bằng cách này, chức năng ghi CD của Windows sẽ không đụng với tiện ích ghi CD mà bạn đang dùng.

(XP) Thay đổi nơi lưu trữ ảnh của CD:

Windows có dành một không gian trên đĩa cứng để lưu trữ những nội dung sẽ được ghi lên đĩa CD, thường khoảng 650MB đến 700MB, nhưng khoảng 1GB trên các ổ đĩa còn khả năng lưu trữ lớn. Bạn có thể chỉ định cho Windows chọn ổ đĩa có không gian trống lớn để lưu trữ: mở hộp thoại CD Drive Properties như trình bày trong phần 53 và chọn thẻ Recording (hoặc tùy chọn tương đương tùy theo ổ đĩa của bạn). Chọn một trong các ổ đĩa hiển thị trong danh sách bên dưới Desktop CD recording.

Giảm tốc độ ghi:

Mặc định Windows thường ghi với tốc độ nhanh nhất theo ổ đĩa CD-R. Nếu bạn có một số trục trặc, giảm tốc độ xuống: mở hộp thoại CD Drive Properties và chọn thẻ Recording và lựa tốc độ thấp hơn trong danh sách liệt kê các tốc độ có thể ghi được nằm dưới Select a write speed.

(XP) Ghi các tập tin lên CD:

Bạn có thể chọn các tập tin muốn ghi lên đĩa CD trong Windows Explorer, và kéo chúng vào trong biểu tượng ổ đĩa hoặc chỉ nhấp chuột phải lên các tập tin được chọn, và nhấn Send To, chọn để gởi đến ổ đĩa CD. Windows sẽ sao chép tất cả các tập tin này đến một vùng được chỉ định chứ không ghi chúng trực tiếp lên đĩa CD. Có thể nhấp đúp chuột lên biểu tượng của ổ đĩa để xem nội dung của tập tin. Trong khung tác vụ bên trái, chọn Write these files to CD khi bạn sẵn sàng ghi và thực hiện các bước theo hướng dẫn trong CD Writing Wizard.

Tạo các CD nhạc với Windows Media Player:

Nếu bạn sử dụng Windows Media Player 9 để tạo một playlist tuỳ biến. Bạn có thể sao chép các tập tin nhạc đó lên đĩa CD. Với Windows Player, mở trong chế độ toàn màn hình, chọn Copy to CD or Device ở bên trái. Chọn playlist từ danh sách Music to Copy. Nếu bạn thấy Will not fit trong cột trạng thái của playlist, bỏ chọn một số tập tin. Cuối cùng chọn Copy Music trên góc trên bên phải của chương trình.

Tạo CD nhạc với một phần mềm khác:

Windows Media Player 9 được cung cấp miễn phí, cho phép sao chép các tập tin vào trong ổ đĩa CD, nhưng tiện ích của các nhà cung cấp thứ 3 cho bạn nhiều tùy chọn hơn, bao gồm cả khả năng sao chép các CD âm nhạc mà không làm mất đi chất lượng âm thanh, điều này xảy ra trong Windows Media Player do tính năng chuyển đổi dạng format của nó.

Ký tự đặc biệt:

Nếu trong một tài liệu của bạn cần một số ký tự đặc biệt không phổ biến, chọn Start, Programs (All Programs nếu trong Windows XP), Accessories, System Tools, Character Map, hoặc chỉ cần nhấn phím Windows-R, nhập vào charmap, và sau đó nhấn Enter (nếu như trong máy tính của bạn chưa cài đặt character map, xem mục 47 cách hướng dẫn cách cài đặt). Chọn font cần dùng, sau đó nhấp đúp chuột lên ký tự bạn muốn chèn vào trong tài liệu, rồi nhấn nút Copy để dán các ký tự đó vào trong tài liệu. Trong Windows 2000 và XP bạn có thể kéo thả các ký tự trong ô nhập liệu Characters to copy (hình bên dưới) của chương trình character map vào trong WordPad hoặc các ứng dụng khác.

Bật các điều khiển trong Player:

TTO – Nếu bạn mở một đĩa CD hay DVD bằng Windows Media Player nhưng các nút điều khiển của nó bị vô hiệu hóa, bạn phải hiển thị thanh thực đơn của player (bạn có thể phải nhấn vào nút ở góc trên bên trái nếu đang ở chể độ toàn màn hình). Chọn Play, DVD, VCD or CD Audio (từ hiển thị có thể khác).

Phóng to thu nhỏ màn hình khi xem DVD:

Nếu bạn dùng Windows Media Player 9 để mở DVD, sử dụng biểu tượng full-screen ở góc dưới bên phải của chương trình để phóng to thu nhỏ, hay nhấn Alt-Enter để chuyển qua lại giữa chể độ toàn màn hình hay bình thường. Di chuyển con trỏ chuột ra phía xa của góc màn hình (sau đó giữ chuột đứng yên) để làm ẩn đi hộp điều khiển và hiển thị hình ảnh trên toàn bộ màn hình. Để hiển thị lại hộp điều khiển di chuyển chuột vào trong vùng hiển thị của màn hình.

Điều khiển tốc độ  DVD:

Khi mở DVD bằng Windows Media Player 9, nhấn chuột hay kéo thanh trượt để di chuyển tới hay lui trở lại. Nhấn Ctrl-Shift-F để xem nhanh các hình ảnh, Ctrl-Shift-G để tăng tốc độ xem, Ctrl-Shift-S để xem chậm lại. Ctrl-Shift-N để chạy lại với tốc độ bình thường.

Điều khiển DVD bằng bàn phím:

Một số phím điều khiển được dùng khi xem DVD là Ctrl-P để tạm dừng hoặc chạy lại, F10 dùng để tăng và F9 dùng để giảm âm lượng, F8 để tắt tiếng.

(XP) Giảm cảm giác khó chịu khi chạy ứng dụng, phần 1:

TTO – Nếu các ứng dụng trong máy tính của bạn mở quá chậm, bạn có thể cải thiện bằng cách tắt một số hiệu ứng hình ảnh của Windows. Nhấn chuột phải trên My Computer, và chọn Properties. Lựa thẻ Advanced, và dưới Performance, nhấn nút Settings. Bên dưới thẻ Visual Effect, chọn Adjust for best performance hoặc Custom, sau đó tắt tất cả các hiệu ứng không cần thiết.

(98, 2K, ME) Giảm cảm giác khó chịu khi chạy ứng dụng, phần 2:

Để thực hiện vấn đề này trong Windows 98, 2000 hoặc Me, nhấp chuột phải trên desktop và chọn Properties. Nhấn chọn thẻ Effects, bỏ đánh dấu các mục trong Visual Effect cho đến khi bạn thấy tốc độ của nó tốt hơn. Trong Windows 98, tắt Animate windows, menus and lists, và trong cả 3 phiên bản bạn có thể bỏ chọn Show window contents while dragging.

(XP) Thiết lập các quyền ưu tiên:

Hộp thoại Performance Options trong Windows XP cho phép bạn điều khiển giới hạn việc sử dụng bộ nhớ của Windows và quyền ưu tiên của các nhiệm vụ cho bộ xử lý trong máy tính. Để kiểm tra các cài đặt, mở hộp thoại Performance Options được trình bày trong phần 65, chọn Advanced. Dưới Processor Scheduling, giữ nguyên Programs được chọn để cho các ứng dụng thông thường của bạn  chạy với quyền ưu tiên cao hơn so với các ứng dụng chạy nền bên dưới. Tuy nhiên, nếu bạn thường làm việc với một ứng dụng trong khi các ứng dụng khác thì đang sắp xếp trên cơ sở dữ liệu, in các hình đồ họa lớn, hay thực hiện một nhiệm vụ khác cần dùng nhiều bộ xử lý ngầm bên dưới, thì bạn nên lựa Background services để thời gian chia sẻ bộ xử lý cho tất cả các tác vụ đều bằng nhau thay vì ưu tiên cho các ứng dụng thông thường. Bạn nên sử dụng cài đặt mặc định Programs của Memory usage. Chọn System cache chỉ khi bạn muốn sử dụng máy tính như một máy chủ thay vì máy trạm.

Kiểm tra tính tương thích với hibernate:

Nếu bạn muốn Windows khởi động trong vài giây tất cả các ứng dụng và tài liệu được mở giống như trước khi bạn tắt máy, thử dùng chế độ hibernate. Trong thanh Address của cửa sổ Explorer hay Internet Explorer, nhập Control Panel\Power Options. Nếu trong hộp thoại Power Options Properties không có thẻ Hibernate, thì máy bạn không có chế độ này. Ngược lại nếu có chức năng này, chọn nó và kiểm tra xem máy tính của bạn có đáp ứng các yêu cầu về không gian đĩa cho chế độ Hibernate hay không.

Cài đặt chế độ Hibernate, phần 1:

Nếu hệ thống của bạn có hỗ trợ chế độ hibernate, bật nó bằng cách chọn thẻ Hibernate của hộp thoại Power Options Properties (xem trong phần 68) và chọn Enable hibernation.

Cài đặt chế độ Hibernate, phần 2:

Ngay khi chế độ hibernate được bật, chọn Start, Shut Down hoặc Start, Turn Off Your Computer để tắt máy. Nếu bạn chọn Shut Down, lựa Hibernate và nhấn OK. Còn nếu chọn Turn Off Your Computer, thì bạn nhấn giữ phím Shift để chọn biểu tượng Standby cho chể độ hibernate, sau đó nhấn chuột chọn nó.

Đường biên lớn:

Làm cho đường biên của các cửa sổ dễ dàng để chọn hơn. Bạn có từng phải cố gắng để chọn vị trí đặt chuột trên đường biên cửa sổ để làm thay đổi kích thước của cửa sổ chưa? Nó thật đáng sợ, để thay đổi kích thước cửa sổ dễ dàng hơn, đầu tiên nhấn chuột phải trên desktop, chọn Properties, sau đó nhấn trên thẻ Appearance (chọn thẻ Advanced cho Windows XP). Từ danh sách Item, chọn Active Window Border, và tăng kích thước của đường biên bằng cách tăng giá trị trong ô Size

Xây dựng một thanh tác vụ lớn hơn:

TTO – Nếu bạn có quá nhiều biểu tượng trong thanh tác vụ và khay hệ thống, nhấp chuột phải trên thanh tác vụ và đảm bảo rằng Lock the Taskbar không được đánh dấu. Bây giờ bạn có thể kéo đỉnh của thanh tác vụ lên cho kích thước của nó tăng gấp đôi. Di chuyển nó đến một cạnh của màn hình và thay đổi kích thước cho nó để tiết kiệm không gian.

Ẩn thanh tác vụ:

Nếu bạn thích dành nhiều không gian hơn cho các cửa sổ hiển thị, nhấn chuột phải trên thanh tác vụ và chọn Properties. Chọn Auto Hide hoặc Auto-hide the taskbar, nhấn OK. Thanh tác vụ sẽ được ẩn đi, nhưng nó sẽ hiển thị trở lại tại chổ đó khi bạn di chuyển con trỏ chuột đến cạnh của màn hình ngay vị trí của nó.

Bỏ các biểu tượng trình đơn lớn:

Ở chế độ mặc định Windows sử dụng các biểu tượng lớn trong Start menu, nhưng các biểu tượng nhỏ được sử dụng trong các trình đơn con của nó. Để loại bỏ các biểu tượng ảnh có kích thước quá lớn, nhấp chuột phải trên nút Start (trong XP) hoặc trên thanh tác vụ (trong tất cả các phiên bản của Windows), sau đó chọn Properties. Trong XP, nhấn nút Customize thích hợp để chọn Small icons (nếu bạn dùng Start menu trong XP) hoặc Show Small Icons in Start menu trong danh sách Advanced Start menu options (nếu bạn dùng Start menu kiểu củ). Trong các phiên bản khác của Windows chọn Show small icons in Start menu trong mục xuất hiện đầu tiên.

(98) Dọn dẹp màn hình desktop, phần 1:

Bạn có mệt mỏi với tình trạng lộn xộn của các biểu tượng trên màn hình desktop? Để ẩn chúng trong Windows 98, nhấp chuột phải trên màn hình desktop, chọn Properties. Nhấn chọn thẻ Effects và đánh dấu chọn lên Hide icons when the desktop is viewed as a Web page. Nhấn OK. Bây giờ bất cứ khi nào bạn muốn thấy màn hình desktop gọn hơn, tất cả các công việc bạn phải làm là chỉ cần nhấp chuột phải lên desktop và chọn Active Desktop, View As Web Page để đưa các biểu tượng của bạn vào trong chế độ ẩn.

(2K, ME, XP) Dọn dẹp màn hình desktop, phần 2:

Các biểu tượng trên desktop có thể chiểm nhiều không gian trong các phiên bản khác của Windows. Để ẩn chúng trong 2000 và Me, nhấp chuột phải trên màn hình desktop, chọn Active Desktop, và chắc chắn rằng mục Show Web Content được đánh dấu. Nhấp chuột phải lên desktop lần nữa (nếu cần) và chọn Active Desktop, Show Desktop Icons để mang các biểu tượng của bạn trở lại màn hình. Để ẩn chúng trong Windows XP, nhấp chuột phải trên desktop và chọn Arrange Icons By, Show Desktop Icons (để bỏ đánh dấu nó). Sau đó lặp lại các bước này nếu muốn hiển thị chúng trở lại màn hình.

Thanh Hùng Sưu tầm.

Các lổi thường gặp ở Windown


Khi hệ thống gặp bất ổn, hệ điều hành (HĐH) sẽ cố gắng đưa ra các thông báo lỗi cho người sử dụng nhận biết để xử lý. Trong một số trường hợp, thông báo lỗi rất rõ ràng và dễ hiểu. Nhưng trong phần lớn các trường hợp, HĐH đưa ra những thông báo chung chung, hoặc khó hiểu, và nhiều khi làm người sử dụng cảm thấy bối rối. Điều này đặc biệt đúng đối với các HĐH Windows của Microsoft. Bài viết cố gắng mô tả và tìm hiểu nguyên nhân một số lỗi thường gặp nhất khi sử dụng Windows.

1. Fatal Exception Error OE/OD Error.
Lỗi Fatal Exception Error (tạm dịch là Lỗi ngoại lệ chết người) có 2 loại OE và OD.
Lỗi Fatal Exception OE xảy ra bất cứ khi nào bộ vi xử lý gặp lỗi dữ liệu hoặc lỗi của chương trình thực thi. Lỗi này có thể xảy ra trong các trường hợp sau:

a.. Chương trình đang chạy bị lỗi.
b.. Dữ liệu hoặc mã máy không hợp lệ được gửi tới HĐH và Bộ vi xử lý.
c.. Cấp độ ưu tiên thực thi của một chương trình bị vi phạm. Khi một trong 3 trường hợp nêu trên xảy ra, bộ vi xử lý sẽ gửi thông báo ngoại lệ (exception) tới HĐH, và nếu HĐH không sửa được lỗi, nó sẽ gửi thông báo lỗi Fatal Exception tới màn hình cho người dùng biết. Trong nhiều trường hợp, lỗi Fatal Exception là không thể cứu vãn được, và bạn chỉ còn một cách duy nhất là nhấn nút Power hoặc Restart của PC tuỳ theo mức độ nghiêm trọng của lỗi.
Lỗi Fatal Exception OD cũng xảy ra khá thường xuyên đối với người dùng Windows. Lỗi này có thể đến từ các nguyên nhân như trình điều khiển card màn hình bị hỏng hoặc quá cũ với HĐH, hoặc một phần mềm đa phương tiện nào đó yêu cầu nâng cấp cho phù hợp với HĐH. Đôi khi lỗi OD là do file Hsflop.pdr bị mất hoặc bị hỏng.

2. Invalid Page Fault Error.
Lỗi Invalid Page Fault Error (tạm dịch là Lỗi bộ nhớ ảo không hợp lệ) xảy ra khi các tham số trao đổi giữa 1 chương trình và HĐH bị sai lệch bất thường. Tham số không hợp lệ sẽ khiến cho chương trình chạy sai và do vậy, HĐH sẽ đưa ra thông báo lỗi Invalid Page Fault. Lỗi này thường xảy ra ở những trường hợp sau:

a.. Bộ nhớ ảo (VM) bị mất ổn định vì thiếu bộ nhớ vật lý (RAM).
b.. VM bị mất ổn định vì thiếu không gian đĩa cứng.
c.. Khu vực VM trên đĩa cứng bị một chương trình nào đó làm hỏng.
d.. Một chương trình nào đó truy cập vào vùng dữ liệu đang được một chương trình khác cập nhật hoặc bổ xung.

3. General Protection Fault Error.
Lỗi General Protection Fault Error (tạm dịch là Lỗi bảo vệ chung) thường xảy ra khi có bất ổn với phầm mềm, hoặc báo hiệu rằng một trình điều khiển thiết bị nào đó đã lỗi thời và cần được nâng cấp.
Nếu không thể tự mình xác định được nguyên nhân gây lỗi, bạn có thể nhờ tới Dr. Watson. Chương trình này là một công cụ hữu hiệu để chuẩn đoán tình trạng hoạt động của Windows khi có trục trặc xảy ra. Nó không chỉ tìm ra thủ phạm gây lỗi mà còn gợi ý cho bạn những hướng giải quyết tương đối hiệu quả.
Để Dr. Watson “bắt được thủ phạm”, ngay sau khi gặp lỗi General Protection Fault, bạn nên chạy công cụ này. Bạn chọn Start – Run – Gõ “drwatson”.

4. Windows Protection Error.
Lỗi Windows Protection Error (tạm dịch là Lỗi bảo vệ Windows) xảy ra khi HĐH cố gắng nạp hoặc loại bỏ hoạt động của một trình điều khiển thiết bị ảo (*.vxd)
Mỗi khi HĐH thông báo về lỗi Windows Protection , bạn có thể chắc chắn rằng một trình điều khiển thiết bị nào đó đã gặp trục trặc. Trong phần lớn cách trường hợp, file *.vxd bị lỗi sẽ được nêu tên trong thông báo của HĐH. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, bạn không thể xác định được file *.vxd nào có vấn đề qua thông báo của Windows. Để xác đinh lỗi file *.vxd trong những trường hợp này, bạn nên chọn chế độ khởi động Step-by-Step Confirmation (hoặc Debugging Mode) để xác định trình điều khiển thiết bị nào cần được sửa chữa. Để chọn chế độ nêu trên, nhấn phím Ctrl (Win9x) hoặc F8 (Win2K, XP) cùng lúc khi HĐH bắt đầu khới động, rồi chọn Step-by-Step Confirmation (hoặc Debugging Mode) từ danh sách.
Lỗi Windows Protection có thể đến từ các nguyên nhân sau:

a.. Có xung đột giữa một trình điều khiển chế độ thực (real-mode) với một trình điều khiển chế độ bảo vệ (protected-mode).
b.. Registry của Windows bị hỏng.
c.. File Win.com hoặc file Command.com bị nhiễm virus hoặc bị hỏng.
d.. Một trình điều khiển thiết bị chế độ bảo vệ được nạp lên từ file Systen.ini trong khi trình điều khiển này đã được tải lên rồi.
e.. Có xung đột giữa các địa chỉ vào-ra vật lý (I/O address ) hoặc địa chỉ bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên (RAM address).
f.. Các thiết đặt cho thiết bị ngoại vi trong CMOS không phù hợp.
g.. Tính năng “Cắm – Xài” (Plug & Play) của BIOS làm việc không ổn định.
h.. Bộ nhớ (hoặc bộ nhớ đệm cache của PC có trục trặc.
i.. Bo mạch chủ của PC hoạt động không ổn định.
j.. PC của bạn có cài cả Microsoft Office 97 và phần mềm Novell Client32.

5. Kernel32.dll.
Lỗi Kernel32.dll (tạm dịch là Lỗi file Kernel32.dll). File Kernel32.dll là một file thư viện động 32 bit có trong Win9x và ME. File này chịu trách nhiệm quản lý bộ nhớ, các hoạt động vào-ra cũng như các ngắt. Khi Windows bắt đầu khởi động, file Kernel32.dll được tải lên một khu vực đặt biệt trong bộ nhớ. Khu vực này được bảo vệ đặc biệt khiến cho các chương trình khác không thể tiếp cận được một khi Kernel32.dll đã chiếm chỗ.
Lỗi Invalid Page Fault xảy ra khi một chương trình cố gắng thâm nhập vào khu vực bộ nhớ được bảo vệ của file Kernel32.dll. Đôi khi lỗi này có thể xảy ra khi chạy một chương trình cụ thể, nhưng cũng có khi nó xảy ra với nhiều chương trình khách nhau. Nếu lỗi là do một chương trình gây ra thì chương trình đó cần được thay thế. Nhưng nếu lỗi xảy ra với nhiều chương trình khác nhau thì bạn nên nghĩ tới khả năng phần cứng có vấn đề.
Bạn nên chọn chế độ khởi động Step-by-Step Confirmation (hoặc Debugging Mode) để kiểm tra xem các chương trình thường trú có phải là nguyên nhân gây lỗi không. (Nói vậy không có nghĩa là loại bỏ khả năng các chương trình khác cũng có thể gây lỗi).
Lỗi Kernel32.dll có thể đến từ các nguyên nhân sau:

a.. File tráo đổi (swap/paging) bị hỏng.
b.. Phân vùng file không hợp lệ.
c.. Danh sách mật khẩu bị mất.
d.. File Kernel32.dll bị hỏng hoặc sai phiên bản.
e.. Registry của Windows bị hỏng.
f.. Lỗi phần cứng (CPU quá nóng, tình trạng overclocking, bộ nguồn không ổn định, lỗi đĩa cứng…).
g.. Các thiết đặt (cho RAM, Cache…) trong BIOS không chính xác.
h.. Lỗi phần mềm.
i.. File *.dll bị lưu trên Desktop.
j.. Thư mục Temp bị mất hoặc hỏng.
k.. File *.cpl (control panel) bị hỏng.
l.. Trình điều khiển phần cứng bị lỗi hoặc bị hỏng.
m.. Cài đặt sai trình điều khiển máy in.
n.. Máy ảo Java bị hỏng.
o.. File *.log bị hỏng.
p.. Lỗi trong thư mục History.
q.. Các file thư viện liên kết động (*.dll) bị hỏng hoặc không đúng phiên bản.
r.. Thiếu chỗ trên đĩa cứng
s.. Cùng một số các trục trặc khác liên quan tới file Kernel32.dll.

6. Stack Fault.
Stack (tạm dịch là Ngăn xếp) là một vùng bộ nhớ dùng cho các file thực thi hoặc cho các quá trình xử lý. Lỗi Stack xảy ra khi một ứng dụng hoặc một quá trình sử lý cố truy cập vào vùng bộ nhớ bên ngoài khu vực Stack. Lỗi này thường dẫn đến treo máy.

7. Missing or Damaged Files
Missing or Damaged Files (tạm dịch là Lỗi file bị mất hoặc hỏng). Đây là một lỗi rất thường gặp ở Windows. Nguyên nhân của lỗi này có rất nhiều, và đôi khi rất khó thể xác định được nguyên nhân.
Để khắc phục tình trạng này thì cách tốt nhất là tìm file bị mất trong bộ cài đặt và chép đè lên file bị hỏng, hoặc chép tới vị trí của file bị mất. Trong trường hợp không được thì bạn cần phải cài đặt lại chương trình.
Cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì bạn cũng nên xác định xem file lỗi bị mất hay bị hỏng. Dựa trên thông báo lỗi, bạn nên dùng lệnh Find hoặc Search của Windows để tìm file. Nếu tìm thấy (tức là file bị hỏng), bạn nên tìm xem file này của HĐH, của các chương trình Microsoft, hay của một hãng khác. Để làm vậy, bạn nhấn chuột phải vào file, chọn Properties, nhấn lên nhãn Version (nếu có). Thông tin về file nàm ở đây, và dựa vào đó bạn có thể xác định được file bị mất thuộc chương trình nào, và tìm file thay thế ở đâu. Nếu không tìm thấy file, hoặc không biết file do ai phát triển, bạn nên thử một vài cách sau để tìm thông tin:

a.. Kiểm tra xem có chương trình nào không chạy khi bạn có gắng cho nó làm việc.
b.. Xác định xem thông báo lỗi có xuất hiện khi bạn chạy một chương trình cụ thể nào đó không.
c.. Kiểm tra những chương trình được cài đặt (hoặc gỡ cài đặt) gần nhất.

8. Blue screen of death
Blue screen of death (tạm dịch là Màn hình màu xanh chết chóc) không nên coi là lỗi mà nên được coi là hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống do lỗi gây ra. Khi bạn nhìn thấy màn hình màu xanh này có nghĩa là Windows đã mất khả năng kiểm soát. Bạn được khuyên là hãy nhấn tổ hợp phím CTRL-ALT-DEL để khởi động lại PC. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, kiểu khởi động nóng này cũng không có tác dụng, và bạn chỉ còn một cách duy nhất là nhấn nút Restart hoặc Power trên PC mà thôi.

So với những người anh em Win9x của mình thì Win2K và XP tỏ ra có khả năng chịu đựng lỗi cao hơn nhiều, đặc biệt là WinXP. Tuy nhiên không phải là Win2K và XP không có lỗi. Khi quản lý được lỗi, WinXP đề nghị bạn gửi thông tin về lỗi cho Microsoft xử lý. Khi không sửa chữa được trục trặc (mặc dù tình trạng này không nhiều) WinXP hoặc: bất ngờ khởi động lại PC mà không đưa ra một thông báo nào, hoặc: xuất hiện màn hình màu xanh kiểu mới với những thông báo rất khó hiểu với người dùng thông thường. Trong trường hợp này, bạn cũng chỉ có thể nhấn nút Restart hoạc Power trên PC mà thôi.

Trong bài viết này, tôi chỉ bước đầu mô tả và tìm hiểu nguyên nhân một số lỗi hay gặp nhất khi người dùng chạy các HĐH Windows của Microsoft. Qua đó, tôi cũng cố gắng đưa ra một số hướng giải quyết để các bạn cùng tham khảo khi “không may” gặp phải những lỗi nêu trên. Hy vọng bài viết sẽ phần nào giúp bạn tự tin hơn trong việc sử dụng Windows nói riêng và trong quá trình học hỏi, nâng cao trình độ tin học nói chung.

Thanh Hùng Trích